I. Một vài khái niệm về công nghệ nano.
Chữ
nano, gốc Hy Lạp, được gắn vào trước các đơn vị đo để tạo ra đơn vị ước giảm đi
1 tỷ lần(10-9). Ví dụ : nanogam = 1 phần tỷ của gam ; nanomet = 1
phần tỷ mét. Công nghệ nano là công nghệ xử lý vật chất ở mức nanomet. Công
nghệ nano tìm cách lấy phân tử đơn nguyên tử nhỏ để lắp ráp ra những vật to
kích cỡ bình thường để sử dụng, đây là cách làm từ nhỏ đến to khác với cách làm
thông thường từ trên xuống dưới, từ to đến nhỏ.
Ý
tưởng cơ bản về công nghệ nano được đưa ra bởi nhà vật lý học người Mỹ Richard
Feynman vào năm 1959, ông cho rằng khoa học đã đi vào chiều sâu của cấu trúc
vật chất đến từng phân tử, nguyên tử vào sâu hơn nữa. Nhưng thuật ngữ “công
nghệ nano” mới bắt đầu được sử dụng vào năm 1974 do Nario Taniguchi một nhà
nghiên cứu tại trường đại học Tokyo
sử dụng để đề cập khả năng chế tạo cấu trúc vi hình của mạch vi điện tử.
Vật
liệu ở thang đo nano, bao gồm các lá nano, sợi và ống nano, hạt nano được điều
chế bằng nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ nano, vật liệu sẽ có những tính năng
đặc biệt mà vật liệu truyền thống không có được đó là do sự thu nhỏ kích thước
và việc tăng diện tích mặt ngoài của loại vật liệu này.
Để
hiểu rõ về công nghệ nano, ta phải tìm hiểu khái niệm về vật liệu nano
- Vật liệu Nano
Vật liệu
Nano có thể được định nghĩa một cách khái quát là loại vật liệu mà trong cấu
trúc của các thành phần cấu tạo nên nó ít nhất phải có một chiều ở kích thước
nanomet.
- Công nghệ nano :
Công
nghệ nano bao gồm việc thiết kế, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị hay
hệ thống ở kích thước nanomet (1nm = 10-9m).
Vật
liệu nanocomposite là loại vật liệu nano có ứng dụng rộng rãi cả trong kỹ thuật
và dân dụng. Nanocomposite bao gồm cả ba loại nền kim lọai, nền gốm và nền
polymer. Ở đây, ta chỉ đề cập chủ yếu đến nanocomposite trên cơ sở chất nền là
polymer.
Vật
liệu nanocomposite polymer
: là loại vật liệu
composite-polymer với hàm lượng chất gia cường thấp ( 1-7%) và chất gia cường
này phải ở kích thước nanomet.
Pha
gia cường ở kích thước nanomet được sử dụng trong lĩnh vực nanocomposite thường
là hạt nano và ống carbon (carbon nanotube). Các phương pháp được sử dụng
phổ biến hiện nay để chế tạo vật liệu nanocomposite polymer là phương pháp
insitu, nóng chảy, nhũ tương và phương pháp dung dịch.
II.
Những ứng dụng của công nghệ nano
Trong ngành công nghiệp hiện nay, các tập đoàn sản xuất điện tử đã bắt đầu đưa
công nghệ nano vào ứng dụng, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh từ chiếc
máy nghe nhạc iPod nano đến các con chip có dung lượng lớn với tốc độ xử lý cực
nhanh … Trong y học, để chữa bệnh ung thư người ta tìm cách đưa các phân tử
thuốc đến đúng các tế bào ung thư qua các hạt nano đóng vai trò là “ xe tải
kéo”, tránh được hiệu ứng phụ gây ra cho các tế bào lành. Y tế nano ngày nay
đang nhằm vào những mục tiêu bức xúc nhất đối với sức khỏe con người, đó là các
bệnh do di truyền có nguyên nhân từ gien, các bệnh hiện nay như: HIV/AIDS, ung
thư, tim mạch, các bệnh đang lan rộng hiện nay như béo phì, tiểu đường, liệt
rung (Parkison), mất trí nhớ (Alzheimer), rõ ràng y học là lĩnh vực được lợi
nhiều nhất từ công nghệ này. Đối với việc sửa sang sắc đẹp đã có sự hình thành
nano phẩu thuật thẩm mỹ,nhiều lọai thuốc thẩm mỹ có chứa các loại hạt nano để
làm thẩm mỹ và bảo vệ da. Đây là một thị trường có sức hấp dẫn mạnh, nhất là
đối với công nghệ kiệt xuất mới ra đời như công nghệ nano.
Ngoài
ra, các nhà khoa học tìm cách đưa công nghệ nano vào việc giải quyết các vấn đề
mang tính toàn cầu như thực trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng. Việc
cải tiến các thiết bị quân sự bằng các trang thiết bị, vũ khí nano rất tối tân
mà sức công phá khiến ta không thể hình dung nổi.
*
Vật liệu nano composite polymer có các ứng dụng tiêu biểu như sau:
- Ống nano carbon
Composite
sợi carbon trước đây rất nổi tiếng vì nhẹ, bền, ít bị tác dụng hóa học nếu thay
sợi carbon bằng ống nanocarbon chắc chắn sẽ làm vật liệu nhẹ hơn nhiều, được sử
dụng trên các phương tiện cần giảm trọng lượng như máy bay…
Hiện
nay, sợi carbon và các bó ống carbon đa lớp được dùng gia cường cho polymer để
điều khiển và nâng cao tính dẫn, dùng làm bao bì chống tĩnh điện hay làm vật
liệu cấy vào cơ thể vì carbon dễ tương hợp với xương, mô…, làm các màng lọc
cũng như linh kiện quang phi tuyến.
Một
hướng mới hiện nay là dùng ống nano carbon để gia cường cho polymer nhưng không
phải để tạo ra cấu trúc nanocomposite mà để thay đổi tính chất quang điện của
polymer. Ví dụ như PPV (m-phenylenevinylene-co-dioctoxy-p-phenylenevinylene)
sau khi được gia cường với ống nano carbon, độ dẫn điện tăng lên 8 lần, bền cơ
lý hơn PMMA/ống carbon nano được dùng làm kính hiển vi quang học dưới điện
trường một chiều áp vào là 0.3kV/mm.
- Hạt nano:
Đất
sét chứa các hạt nano là loại vật liệu xây dựng lâu đời. Hiện nay, polymer gia
cường bằng đất sét (nanoclay) được ứng dụng khá nhiều như dùng trong bộ phận
hãm xe hơi. Ngoài ra có thể sử dụng hạt carbon đen có kích thước 10 đến 100 nm
để gia cường cho vỏ xe hơi.
Polymer/đất
sét có thể làm vật liệu chống cháy, ví dụ như một số loại nanocomposite của
Nylon 6/silicate, PS/layered silicate…hay vật liệu dẫn điện như nanocomposite
PEO/Li-MMT (MMT = Montmorillonite) dùng trong pin, vật liệu phân hủy sinh học
như PCL/MMT hay PLA/MMT.
Ngoài
ra, khi các polymer như ABS, PS, PVA…được gia cường hạt đất sét khác nhau sẽ
cải thiện đáng kể tính chất cơ lý của polymer và có những ứng dụng khác nhau
như ABS/MMT làm khung xe hơi hay khung máy bay, PMMA/MMT làm kính chắn gió,
PVA/MMT làm bao bì…
Các
hạt nano được sử dụng trong sơn có thể cải thiện đáng kể tính chất như làm cho
lớp sơn mỏng hơn, nhẹ hơn, sử dụng trong máy bay nhằm giảm trọng lượng máy bay.
Ngoài đất sét
ra thì trong vật liệu nanocomposite polymer còn sử dụng các hạt ở kích thước
nanomet như hạt CuS, CdS, CdSe…Ví dụ như PVA với hàm lượng hạt CuS (~20nm-12nm)
là 15-20% thể tích cho độ dẫn điện cao nhất, trong khi nếu các hạt CuS ở kích
thước 10µm, muốn đạt được độ dẫn điện tương ứng thì hàm lượng CuS phải là 40%.
Nanocomposite polymer nano CdS, CdSe, ZnO,ZnS còn được sử dụng như những vật
liệu cảm quang trong phim, giấy ảnh, mực in, bột photocopy, mực in màu.
Nhìn
chung, vật liệu nanocomposite có tính chất tốt hơn so với composite thông
thường nên có nhiều ứng dụng đặc biệt và hiệu quả hơn. Đây sẽ là lọai vật liệu
mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới và hứa hẹn nhiều tiềm năng ứng dụng cao.
III. Cuộc chạy đua thực sự trong thời đại công nghệ nano
Do
các ứng dụng kỳ diệu của công nghệ nano, tiềm năng kinh tế cũng như tạo ra sức
mạnh về quân sự. Vì lẽ đó hiện nay trên thế giới đang xảy ra cuộc chạy đua sôi
động về phát triển và ứng dụng công nghệ nano. Có thể kể đến mốt số cường quốc
đang chiếm lĩnh thị trường công nghệ này hiện nay là: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung
Quốc, Đức, Nga và một số nước Châu Âu…có thể nói ở những quốc gia trên chính
phủ dành một khoản ngân sách đáng kể hổ trợ cho việc nghiên cứu và ứng dụng
thực tiển của ngành công nghệ nano. Không chỉ các trường Đại học có các phòng
thí nghiệm với các thiết bị nghiên cứu quy mô mà các tập đoàn sản xuất cũng
tiến hành nghiên cứu và phát triển công nghệ nano với các phòng thí nghiệm với
tổng chi phí nghiên cứu tương đương với ngân sách chính phủ dành cho công nghệ
nano.
Ở
Việt Nam,
tuy chỉ mới tiếp cận với công nghệ nano trong những năm gần đây nhưng cũng có
những bước chuyển tạo ra sức hút mới đối với lĩnh vực đầy cam go, thử thách
này. Nhà nước cũng đã dành một khoản ngân sách khá lớn cho chương trình nghiên
cứu công nghệ nano cấp quốc gia với sự tham gia của nhiều trường Đại học và
Viện nghiên cứu..
Công nghệ nano là một bước tiến bộ vượt bậc của công
nghệ, nó tạo ra những ứng dụng vô cùng kỳ diệu tạo ra nhiều cơ hội hơn, nhưng
bên cạnh đó cũng có những thách thức đặt ra về thảm họa môi trường và khả năng
phát triển vũ khí lọai mới với sức tàn phá không gì so sánh nổi. Tuy nhiên, con
người ngày nay đã hướng nhiều hơn với cái thiện nên chúng ta có thể hy vọng là
công nghệ nano sẽ mang lại hạnh phúc cho nhân loại nhiều hơn.
Cty st